Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn. Trong một câu đối làm khoảng cuối đời, Nguyễn Công Trứ tổng kết cuộc đời mình:“Cũng may thay công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời Nam bể Bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ; Thôi quyết hẳn cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bảy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn”.
Trong đền kỷ niệm công cuộc dinh điền ở làng Đông Quách, huyện Tiền Hải, Thái Bình, có câu đối về công lao của ông rất cảm động:“Đặc địa sinh từ, Đông Ấp nhất bách niên kỷ niệm, Kình thiên trụ thạch, Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao”(Trên đất dựng sinh từ, làng Đông Ấp trăm năm kỷ niệm, Giữa trời trơ cột đá, ngọn Hồng Sơn muôn thủa sánh cao)Nguyễn Công Trứ là một ông quan rất thanh liêm, chính trực. Thuở bé nghèo xác, lớn lên thi đỗ, làm quan, về già Nguyễn Công Trứ vẫn sống đạm bạc.
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang và giúp triều đình “an dân”. Về “an dân”, Nguyễn Công Trứ có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, của Lê Duy Phương ở Thanh Hoá, hay cuộc tiễu phạt ở Quảng Yên...
Ông viết lời châm ngôn: “Hữu chí sự cánh thành”. Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội. Những vần thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã hội triều Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa. Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tìnhNguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan thanh liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguyễn Công Trứ có ghi lại tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ đương thời:“ Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ, Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồngỐng nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre mối dũi quanh co, Góc tường đất trùn lên lố nhố, Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô, Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó, Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu, Đầu giàn chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ. Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no, Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ... ”(Hàn Nho phong vị phú)Có lúc nhiều chua chát:“ Nói phô nghe cũng giỏi trai, Vì nỗi không tiền hoá dở ngài ”Hay:“ Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc! Trời để tao sống mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò ”Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Trứ không muốn nói nhiều đến cái xấu, cái tiêu cực.
Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối. Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”. Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ.
Nguyễn Công Trứ hết sức chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân. Ông đề nghị “đặt nhà học” cho con em nhân dân được học hành... “đặt xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo, “khi nào giá cao thì bán, giá hạ thì mua, gặp lúc thuỷ hạn bất thường, đem thóc chiếu cấp cho từng người, năm nào được mùa sẽ theo số đã cấp thu lại để chứa trữ” (Sớ nói về năm quy ước trong làng; năm 1829). Ông tố cáo “cái hại cường hào làm cho đến nỗi con mất cha, vợ mất chồng, tính mệnh phải thiệt hại, tài sản phải sạch không” và đề nghị triều đình “trị tội rất nặng” (Sớ nói về tệ cường hào; năm 1828), v. v... Trong những việc ông làm, có ích lợi thiết thực và to lớn cho nhân dân hơn cả là công cuộc khẩn hoang.
Suốt cuộc đời bốn phần năm thế kỷ của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm nhiều việc, thâm tâm ông bao giờ cũng đinh ninh rằng việc mình làm là “vì dân vì nước”:“ Một mình để vì dân vì nước, Túi kinh luân, từ trước để nghìn sau... ”Phần II:Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam. Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề chính: 1.
2. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Lúc nào trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một câu hỏi lớn:“Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà vua Gia Long bản “ Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:“Giữ lòng trung ái, Chăm đạo dâu con, Phát triển nông trang, Trừ bỏ dị đoan, Sửa đổi phong tục, Thanh thải tham tàn, Tiến cử tài đức, Giữ nghiêm luật lệ”. Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công Trứ lao vào công việc một cách hăng say, không hề quản ngại gian lao, vất vả.
Hải Phòng tạm ngừng các hoạt động vận tải thủy nội địa, vui NDO - Trước ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 gây ra, chiều 25/8, Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thành phố Hải
ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ PHẦN 1:1. Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học.
Ông đặt vấn đề sống ở đời phải làm việc có ích:“ Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phái có danh gì với núi sông”Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:“ Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ lần”.. v. Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiế